Khái niệm tiền ảo, tiền điện tử và tiền mã hóa đang được sử dụng khá bừa bãi tại Việt Nam. Điều này có thể do mọi người nhầm lẫn 3 loại tiền tệ này là giống nhau hoặc chưa biết phân biệt rõ bản chất của 3 loại tiền tệ trên. Ở bài viết hôm nay, chúng ta cùng nhau phân biệt tiền ảo, tiền điện tử và tiền mã hóa. Đồng thời, chúng ta sẽ xem xét xem quan điểm của thế giới và Việt Nam về những loại tiền tệ này như thế nào?
Phụ Lục
Phân biệt tiền ảo, tiền điện tử, tiền mã hóa
Tiền điện tử
Khái niệm tiền điện tử (electronic money/e-money) trên thế giới ngày nay thường được hiểu trong một phạm vi khá rộng. Chẳng hạn:
- Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) mô tả tiền điện tử là một giá trị tiền tệ được lưu trữ trên một thiết bị điện tử thường được sử dụng để thanh toán cho các tổ chức khác ngoài các tổ chức. phát hành.
- Ngân hàng Thanh toán Quốc tế (BIS) định nghĩa tiền điện tử là một sản phẩm có giá trị được lưu trữ hoặc trả trước, trong đó thông tin về tiền của khách hàng hoặc giá trị có sẵn được lưu trữ trên thiết bị điện tử. thuộc sở hữu của khách hàng.
Những định nghĩa này hơi phức tạp, có thể gây nhầm lẫn về ý nghĩa của tiền điện tử, khó phân biệt với tiền ảo, tiền kỹ thuật số và thậm chí cả tiền di động.
Trên thực tế, tiền điện tử đã được xác định rõ ràng và phân biệt với các loại tiền tệ khác thông qua 4 đặc điểm chính:
- Trước hết, tiền điện tử phải là tiền pháp định. Theo đó, tiền điện tử có cả ba chức năng của tiền: lưu trữ giá trị, trao đổi (phương tiện trao đổi) và kế toán (đơn vị tài khoản). Đồng thời, tiền điện tử luôn được thể hiện dưới giá trị của đồng tiền fiat của một quốc gia (ví dụ: VND, USD, SGD…). Bên cạnh đó, tiền điện tử cũng được đảm bảo bởi Ngân hàng Trung ương.
- Thứ hai, tiền điện tử có thể được phát hành bởi một ngân hàng hoặc nó cũng có thể được phát hành bởi một tổ chức phi ngân hàng. Do đó, để đảm bảo an toàn cho người sử dụng, các quốc gia luôn có những quy định rất chặt chẽ đối với các tổ chức phát hành tiền điện tử. Đối với các ngân hàng, TCTD có hệ thống các quy định chặt chẽ về an toàn hoạt động, quản lý rủi ro, tỷ lệ dự trữ bắt buộc, bảo hiểm tiền gửi, v.v. Đối với các tổ chức phi ngân hàng, TCTD có quy định về cấp phép, giám sát… và thông thường tiền gửi phải được thực hiện tại hệ thống ngân hàng (tương ứng với số tiền phát hành với một tỷ lệ nhất định).
- Thứ ba, tiền điện tử có chế độ tiền tệ của ngân hàng trung ương. Theo đó, tiền điện tử do các ngân hàng phát hành sẽ được bảo đảm bằng tỷ lệ dự trữ bắt buộc tại ngân hàng trung ương, trong khi tiền điện tử do các tổ chức phi ngân hàng phát hành sẽ được bảo đảm bằng cơ chế ký quỹ tại ngân hàng trung ương. hệ thống ngân hàng (với một biên độ nhất định). Thông thường, tỷ lệ ký quỹ này sẽ cao hơn nhiều so với tỷ lệ dự trữ bắt buộc vì các quy định an toàn áp dụng cho các tổ chức này thấp hơn nhiều so với các ngân hàng. Tỷ lệ ký quỹ ở một số quốc gia theo cách tiếp cận bảo thủ đang ở mức 100%. Đây cũng là sự khác biệt chính giữa tiền giấy và tiền điện tử (tiền điện tử).
- Thứ tư, tiền điện tử chỉ được lưu trữ trong các sản phẩm điện tử của 2 loại:
- Phần cứng (sản phẩm dựa trên phần mềm cứng) như thẻ chip, điện thoại thông minh
- Chip dữ liệu dựa trên phần mềm như PayPal ví điện tử.
Tiền ảo
Đối với tiền ảo (virtual currency), ECB định nghĩa như sau: “Một loại tiền ảo là một loại tiền kỹ thuật số không được kiểm soát, được phát hành bởi các nhà phát triển phần mềm (nhà phát triển) thường cũng kiểm soát hệ thống; được sử dụng và chấp nhận thanh toán giữa các thành viên của một cộng đồng ảo nhất định“. Ví dụ, tiền ảo Pokecoins trong trò chơi Pokemon GO hoặc tiền Facebook được sử dụng để quảng cáo hoặc trò chơi trên ứng dụng Facebook…
Theo đó, có thể thấy tiền ảo và tiền điện tử rất khác nhau. Tiền ảo không phải là một loại tiền tệ fiat, vì vậy nó không được gắn liền với quyền mặc định được chuyển đổi sang tiền tệ fiat và được đảm bảo bởi Ngân hàng Trung ương.
Các tổ chức phát hành tiền ảo cũng không phải chịu sự quản lý và giám sát chặt chẽ của Ngân hàng Trung ương. Đồng thời, phạm vi hoạt động của tiền ảo thường khá hẹp, chỉ trong một cộng đồng và được sử dụng cho một mục đích nhất định (ví dụ: trò chơi trực tuyến).
Nói cách khác, tiền ảo có nhiều đặc điểm của một hàng hóa có thể trao đổi hơn là một loại tiền tệ. Tuy nhiên, hiện nay, tiền ảo đang dần phát triển với một loại tiền ảo chuyển đổi, nhưng chỉ có trách nhiệm của tổ chức phát hành là gắn liền, không phải trách nhiệm của ngân hàng trung ương và phạm vi hoạt động cũng bị hạn chế. Chỉ trong một cộng đồng như đã đề cập ở trên.
Tiền mã hóa
Đối với tiền kỹ thuật số hoặc tiền mã hóa: được tạo ra bởi các thuật toán mật mã phức tạp, được giao dịch và trao đổi hoàn toàn trên môi trường Internet và hiện không nằm dưới sự quản lý của bất kỳ cá nhân nào hoặc bất kỳ tổ chức nào khác (trừ khi do Ngân hàng Trung ương trực tiếp phát hành).
Ví dụ điển hình về tiền kỹ thuật số là Bitcoin, Ethereum… Nguồn gốc của tiền mã hóa có thể được xác định là tiền ảo. Nhưng nó đang phát triển để có nhiều tính năng của tiền điện tử như khả năng chuyển đổi thành tiền fiat, khả năng thanh toán và khả năng lưu trữ giá trị ít hơn (do biến động cao)…
Tuy nhiên, tiền kỹ thuật số vẫn còn một chặng đường dài để trở thành một loại tiền điện tử với lý do quan trọng nhất là được công nhận bởi các ngân hàng trung ương quốc gia. Khi các ngân hàng trung ương của các quốc gia không chấp nhận nó, đồng tiền kỹ thuật số sẽ không được bảo đảm và không thể trao đổi trong phạm vi tiền điện tử.
Hiện nay, tiền kỹ thuật số đang được phát triển theo hướng khai thác những lợi thế và lợi thế của công nghệ blockchain – blockchain (như chi phí giao dịch thấp, bảo mật cao, tiện lợi, tốc độ…) nhiều hơn theo hướng sử dụng tiền kỹ thuật số như một loại tiền tệ thực sự.
Quan điểm về tiền mã hóa của thế giới và Việt Nam
Hiện tại, tính hợp pháp của tiền điện tử vẫn là vấn đề cần xem xét và cân nhắc. Về bản chất, tiền điện tử ở Việt Nam là giá trị tiền tệ được lưu trữ trên phương tiện điện tử và được quy định trong các văn bản pháp luật dưới dạng ví điện tử và thẻ trả trước và ví di động cử động.
Quy định tiền điện tử nhằm mục đích phát triển các sản phẩm thanh toán được cung cấp dưới dạng tiền điện tử và tạo điều kiện phát triển thương mại điện tử, giảm lạm phát, loại trừ tiền kỹ thuật số, các công cụ được sử dụng làm phương tiện thanh toán mà không bị quy định bởi cơ quan quản lý.
Cho đến nay, hơn 100 quốc gia đang đầu tư vào công nghệ sổ cái phân tán (DLT) với hơn 3 tỷ USD. Ngoài ra, hơn 120 ngân hàng trung ương đang tham gia vào các cuộc thảo luận DLT, bao gồm ý nghĩa của việc phát triển tiền điện tử của ngân hàng trung ương – một loại tiền tệ dưới dạng tiền fiat kỹ thuật số. được thành lập theo quy định của Chính phủ.
Vậy là chúng ta đã biết phân biệt tiền ảo, tiền điện tử và tiền mã hóa. Hiện tại, Việt Nam vẫn còn khá hạn chế về việc phân biệt và sử dụng những loại tiền tệ này. Tuy nhiên, chúng ta không thể phủ nhận sự phát triển của chúng. Hy vọng bài viết này sẽ cung cấp kiến thức bổ ích cho bạn. Chúc bạn giao dịch thành công!